Covid 19 được biết tới là một đại dịch toàn cầu, nó đã và đang để lại những hậu quả nặng nề cả về kinh tế và xã hội. Dưới tác động của dịch bệnh Covid-19, rất nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm nhân sự thậm chí còn bị phá sản. Vậy trong thời điểm này, doanh nghiệp có được tự ý cắt giảm nhân sự vì dịch bệnh Covid-19 hay không? Hãy cùng Luật Vitam tìm hiểu!
Mục lục
1. Căn cứ pháp lí
Bộ luật Lao động 2019
Quyết định 447/QĐ-TTg 2020
Nghị định 145/2020/NĐ-CP.
2. Doanh nghiệp có thể chấm dứt hợp đồng với người lao động vì Covid-19 không?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người sử dụng lao động được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong các trường hợp sau:
Điều 36. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động
1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật này;
đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;
g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.
Căn cứ theo quy định tại Quyết định 447/QĐ-TTg 2020, Thủ tướng Chính phủ đã công bố dịch Covid-19 trên toàn quốc với tính chất của bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu.
Như vậy, nếu do tác động của Covid-19 mà buộc phải giảm chỗ làm việc thì doanh nghiệp được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động là phù hợp với Điểm c Khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019.
3. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi quyết định chấm dứt hợp đồng lao động do Covid 19
Căn cứ theo quy định khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
4. Doanh nghiệp có phải bồi thường khi chấm dứt hợp đồng sai luật?
Nếu doanh nghiệp không có lý do và không thực hiện đúng thủ tục mà cho người lao động nghỉ việc thì sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Căn cứ theo Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019, doanh nghiệp sẽ phải bồi thường cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động trái luật như sau:
1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
Luật Viatm đã cung cấp cho các bạn những quy định của pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động do Covid 19 thông qua bài viết trên. Hi vọng là mọi người sẽ trang bị cho mình kiến thức pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình!